Những Dòng Cảm Nghĩ Về Cuốn Biên Khảo Nhân Văn Giai Phẩm Và Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc Của Thụy Khuê
Cung Trầm Tưởng
Từ nhiều năm nay, ở hải ngoại người ta đã viết khá nhiều về sự kiện Nhân Văn Giai Phẩm và nhân vật Nguyễn Ái Quốc.
Công chúng nhờ đó có được một sự hiểu biết phong phú, đa nguyên, bổ ích. Tuy nhiên, theo chúng tôi, đó mới chỉ là một cái nhìn cục bộ, tản mạn, rời rạc, không được hệ thống hóa, thiếu chuyên sâu và tính nhất lãm. Tầm nhìn bị hạn chế trong khuôn khổ những bài viết có những khảo hướng khác nhau, nên thiếu bề dầy, tính keo sơn và sự thống nhất tư tưởng của một quyển sách viết nên bởi một tác giả.
Sự khiếm khuyết này của tri thức, và học thuật, nay được bổ sung với sự ra đời của cuốn biên khảo Nhân Văn Giai Phẩm Và Vấn Đề Nguyễn Ái Quốc của nhà nữ phê bình văn học tên tuổi Thụy Khuê.
Trước hết xin nói về hình thức.
Tác phẩm có kích thước của một pho sách: 970 trang, 25 chương, 1 phụ lục và một thư mục gồm 204 tài liệu, tư liệu, tiểu luận, tiểu thuyết, hồi ký, bút ký, nhật ký, tạp ghi, biên niên, thi phẩm, diễn văn, thư từ, báo cáo, tường thuật, chấp bút những cuộc phỏng vấn ghi âm trên điện thoại hay qua những cuộc gặp mặt giữa người hỏi và người trả lời, và những buổi “trò chuyện với những người trong cuộc” của Thụy Khuê.
Bản liệt kê tỉ mỉ trên nhằm nói lên một điều: tác giả đã làm việc cần cù, thận trọng, nghiêm túc, có quy mô-những đức tính cần có của một người làm công tác học thuật chân chính.
Về phương pháp luận, Thụy Khuê đã tỏ ra am tường, tinh tế, thông minh, linh động trong việc sử dụng những công cụ của tư duy khoa học như quy nạp, diễn dịch, phân tích, tổng hợp, ngoại suy, loại suy, đối chiếu (văn bản, văn khí, văn phong), khảo sát (niên đại), và vân vân.
Để truy tìm sự thật bị bóp méo bởi những ý đồ ám muội, Thụy Khuê đã cần mẫn quy tập, tổ chức những sự kiện riêng lẻ thành một tổng hợp có ý nghĩa, kết nối cái này với cái kia thành một tương quan liên đới, dắt dây-connecting the dots-tạo nên cái logic của tổng thể trong đó những sự kiện cá thể trở thành những yếu tố cấu thành của tổng thể. Học thuật như vậy là nghệ thuật ráp nối cái muôn vẻ thành một chỉnh thể có ý nghĩa, hóa luận ngôn ( hiểu theo nghĩa là sự lập ngôn của tư duy logic) thành một bài thơ trí tuệ-un poème intellectuel-trong chừng mực tính chính xác của khoa học cho phép.
Xin khai triển điều vừa viết ra.
Nghệ thuật lý luận của Thụy Khuê liên hợp được chức năng cảm nhận với chức năng suy nghĩ thành một cảm nghĩ hài hòa, cân đối-điều này thích hợp với khoa học nhân văn-thông qua một ngôn ngữ hữu cơ: sự đơm xương nở thịt của bào thai tư tưởng. Nhà cấu trúc học Roland Barthes diễn tả mối giao thoa này với một hình ảnh nên thơ: : “Qua nghe ra tiếng lao xao của cõi chữ, tôi hỏi về cái dợn mình của nghĩa-C’est le frisson du sens que j’interroge en écoutant le bruissement du langage.” Ngôn ngữ lý luận của Thụy Khuê có cái cấu trúc hai tầng lao xao này .Nó ủ men hương của trí tuệ và gợi dậy nơi người đọc một khoái cảm mỹ học lâng lâng phiêu diệu.
Chúng ta hãy đọc đoạn cô bình ba câu thơ haikuesque của Phùng Cung
Đêm về khuya
Trăng ngả màu hoa lý
Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông
như sau: “Đêm trăng, hoa lý, tiếng gọi đò, sông……là những yếu tố của một cảnh đêm có thể chất hoàn toàn khác nhau. Nhờ một hành động chữ, chúng đã hóa mộng. Để được sống lại trong một không gian khác, để tạo ra nghịch cảnh của một đời người. Sự cô đơn tuyệt đối của con người bị cô lập suốt đời, được nhà thơ biểu hiện dưới một màn trăng đêm không người, mà có “tiếng gọi đò” như “ con nhện vô hình” giăng nối hai bờ xa cách. Hai quang cảnh, một của thiên nhiên hiện thực, diễm ảo Đêm về khuya trăng ngả màu hoa lý và một của tâm thức cô đơn tuyệt đối Tiếng gọi đò căng chỉ ngang sông của kẻ bị cách ly, lưu đày, bị đoạt tự do và cướp ánh sáng mà Nguyễn Mạnh Tường gọi là Un Excommunié-Kẻ Bị Khai Trừ” (trang 421,422 NVGP&VĐNAQ)
Ngôn ngữ lý luận như vậy là tinh tế, uyên bác, đầy đặn, cặn kẽ, tài hoa, đẹp như một bài thơ-beau comme un poème.
Sự đánh tráo lịch sử được chính thống hóa, lên kế hoạch, dựng thành chính sách nhà nước, viết thành sách giáo khoa, sử dụng hết công suất của một cỗ máy tuyên tuyền khổng lồ đập ồn ĩ vào màng nhĩ, con ngươi người dân, cắm sâu xuống tầng tiềm thức của tâm hồn họ: họ bị tẩy não mà không hay và sống kiếp sống thừa của một người có tai mà điếc, có mắt mà mù.
Đối với ai còn thiết tha với dân tộc, còn biết thương đồng bào, điều trên nói lên sự cần thiết của những liều thuốc giải độc mạnh. Chẳng hạn cuốn tự truyện Kẻ Bị Khai Trừ bi thiết nhưng không ủy mị, vẫn giữ được giọng châm biếm và khí chất sĩ phu ngạo nghễ của Nguyễn Mạnh Tường; những truyện ngắn dã sử chuyên chở những thông điệp thấm thía, mang tính phạm thượng, dân dã uyên thâm và những vần thơ phế phủ rớm máu, toát ra một khí phách quyết liệt, không khoan nhượng kẻ thù cộng sản của Phùng Cung, và pho biên khảo Nhân Văn Giai Phẩm & Vấn đề Nguyễn Ái Quốc chuyên sâu, tỉ mỉ, chính xác, bén như một lưỡi dao mổ scalpel của Thụy Khuê.
Xin hậu thuẫn nhận định vừa trình bày với một ví dụ dưới dạng một câu hỏi: Nguyễn Tất Thành thực sự đến Paris năm 1914,1917 hay 1919?
Với cái nhìn phân tích tỉ mỉ và hiếu kỳ của một thám tử chuyên nghiệp, Thụy Khuê đã trả lời hộ chúng ta nghi vấn trên.
Theo những tài liệu chính thức và bán chính thức của đảng Cộng sản Việt Nam, Tất Thành đến Paris năm 1914. Thời điểm này được lựa chọn để hợp lý hóa câu chuyện kể của Trần Dân Tiên-một bút hiệu của Hồ Chí Minh-theo đó anh Ba Nguyễn Ái Quốc đã có công lớn cùng với hai nhà cách mạng lưu vong nổi tiếng Phan Văn Trường và Phan Châu Trinh trong việc khởi xướng và lãnh đạo phong trào đấu tranh chống thực dân Pháp ngay trên đất Pháp trong giai đoạn 1914-1919. Câu chuyện phịa này bị lật tẩy vì theo hồ sơ chính thức của Sở Mật Thám Pháp, “Tất Thành đến Paris ngày 7/6/1919. Ở số 10 Stockhom từ 7/6 đến 11/6. Ở số 56 Monsieur Le Prince từ 12/6 đến 13/7. Và từ 14/7/1919 đến ở 6 Villa des Gobelins.” (Trang 473 sđđ)
Về sau, thấy việc Tất Thành đến Paris năm 1914 quá khó tin, đảng ra lệnh cho Hồng Hà, tác giả cuốn Thời Thanh Niên của Bác Hồ, sửa lại: “Anh bỏ nghề phụ bếp ở Luân Đôn, sang Paris năm 1917, đấy là vào cuối năm 1917? (trang 471 sđđ). Tại sao năm 1917 lại được chọn? Là vì đó là năm xảy ra cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên và cuộc cách mạng bônsêvích tháng 10 ở Nga, như vậy hợp với câu chuyện “Bác ra đi tìm đường cứu nước và sớm giác ngộ chủ nghĩa cộng sản” của ĐCSVN.
Từ sự phát hiện này và những chứng minh hùng hồn của Thụy Khuê về sự đánh cắp danh tính Nguyễn Ái Quốc và quyền sở hữu trí tuệ của ba nhà cách mạng lỗi lạc Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh của Hồ Chí Minh, chúng ta biết được bản chất của con người này. Đó là một tên đại bịp vô liêm sỉ ngoài tiếm danh ba ân nhân thầy học của mình, còn quay lại chê bai, chỉ trích, xuyên tạc họ, và đây không khác gì hơn là sự phản bội ghê tởm của một kẻ ăn cháo đá bát, qua sông đốt đò. Hơn thế nữa, hắn lại còn dám tự mình và bắt thủ hạ phải tôn vinh, thánh hóa mình thành một lãnh tụ anh minh, liêm chính của dân tộc và một vĩ nhân của loài người! Đây quả là một thóa mạ lương tri và đạo lý làm người hiếm thấy trên sân khấu chính trị tự cổ chí kim. Phải có trong tay một quyền lực tuyệt đối và trong đầu một tâm địa quỷ và một ám ảnh bệnh hoạn thì mới có thể hành xử vô luân và kì dị như vậy. Cơ bản, hắn là một con bệnh nhân cách-psychopath- có ý hướng cuồng vĩ và cuồng sát.
KIỆN TOÀN HỒ SƠ NHÂN VĂN GIAI PHẨM
Sự thiếu vắng những công trình biên khảo tổng hợp đã khiến cho sự hiểu biết của chúng ta về sự kiện Nhân Văn Giai Phẩm cục bộ, tản mạn, thiếu tính hệ thống. Ở đây, chúng tôi chỉ xin bổ sung một số dữ kiện quan trọng thu hoạch từ cuốn biên khảo của Thụy Khuê nhằm kiện toàn bức tranh toàn cảnh.
Sau đây là một số dữ kiện mới đối với chúng tôi.
Nhờ uy tín của bản thân mình là người phụ trách xuất sắc mục văn học nghệ thuật của đài RFI-một mục thu hút được giới trí thức và văn nghệ trong và ngoài đảng ở Việt Nam-Thụy Khuê đã mời được một số nhân vật chủ chốt của phong trào NVGP tham gia những buổi “ chuyện trò với người trong cuộc” có ghi âm của cô, và nhờ đó có được một lượng thông tin quý giá, độc đáo về phong trào, đặc biệt những uẩn khúc ở bên trong nó.
Chúng tôi xin đan cử dưới đây một số ví dụ điển hình.
Việc Giai Phẩm Mùa Xuân ra mắt tháng giêng năm 1956, tức bốn tháng trước khi có phong trào Trăm Hoa Đua Nở ở Trung Cộng, chứng tỏ câu chuyện bảo rằng Giai Phẩm chịu ảnh hưởng của phong trào là sai sự thật. Cả Lê Đạt lẫn Hoàng Cầm đều xác định với Thụy Khuê là họ không dính dáng gì với phía bên Trung Cộng cả khi chuẩn bị cho ra mắt Giai Phẩm (trang 828,899 sđd)
Về chính danh, Giai Phẩm, mà mục đích chính là muốn thổi vào cho thi ca Việt Nam một luồng gió mới, chỉ trở thành một phong trào chính trị đòi tự do dân chủ rộng lớn-gọi chung là phong trào NVGP-khi được tiếp sức bởi sự ra đời sau nó của những Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm Mùa Đông, tờ Đất Mới của sinh viên và tờ Nhân Văn (trang 822 sđd)
Về mặt thuần túy văn học, cùng lúc với phong trào thơ tự do ở miền Nam do Thanh Tâm Tuyền của nhóm Sáng Tạo khởi xướng, Giai Phẩm Mùa Xuân ở miền Bắc có một đóng góp không nhỏ cho cuộc cách mạng thi ca Việt Nam. Điều này làm cho chưởng môn chính thống Tố Hữu rất bực tức và nuôi ý định trả thù. Theo chúng tôi, đây là một động cơ có tính cá nhân khiến các nhà thơ của Giai Phẩm phải hứng chịu những hệ lụy chính trị ghê gớm chỉ vì việc làm thuần túy văn học đầy thiện chí của mình. Điều này nói lên bản chất phi văn hóa và đê tiện của chế độ độc tài toàn trị cộng sản.
Để có một ý niệm hoàn chỉnh về tầm vóc của phong trào NVGP, thiết tưởng cũng phải kể đến công đóng góp quan trọng cho phong trào về tư tưởng và học thuật của nhóm đại học gồm các giáo sư tên tuổi như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trương Tửu, Đào Duy Anh, tạo cho phong trào có được một cơ sở lý luận vững vàng, uyên thâm thuyết phục được giới trí thức và sinh viên trong và ngoài đảng. Vì vậy, nếu có gọi phong trào là một cuộc cách mạng tư tưởng tầm cỡ thì cũng là chính danh.
Chúng tôi còn biết được là có một sự mâu thuẫn tư tưởng của nhóm cầm đầu NVGP như sau. Họ không chủ trương chống đảng mà chỉ chống khuynh hướng quá tả kiểu staliniste và masist, nhưng lại tỏ ra thiết tha với chủ nghĩa hiện thực tiểu tư sản Pháp thế kỷ 19 (trang 811 sđd). Đối với đường lối chính thống của đảng, đảng viên nào mà làm như vậy là xét lại, là phản đảng-một tội không thể dung tha. Đó là lý do tại sao họ đã phải hứng chịu những hình phạt quá nặng và bị trù ếm cho đến lúc lìa đời.
Một phát hiện khác mới đối với chúng tôi.
Do uy tín cá nhân của mình, Phan Khôi được mời đứng tên chủ nhiệm tờ Nhân Văn, nhưng Nguyễn Hữu Đang mới đích thực là người khởi xướng, quán xuyến công việc và là linh hồn chính trị của tờ báo. Dưới bút hiệu Người Quan Sát-cũng là của Lê Đạt-ông viết những bài xã luận-article de fond-chỉ trích sắc bén đường lối và chính sách của đảng mà ông cho là cực quyền toàn trị, đòi tự do dân chủ và viện dẫn hiến pháp Trung Cộng để xác định quyền được biểu tình của người dân. Vì vậy ông bị chụp mũ là người hô hào dân biểu tình chống chế độ, và đảng viện cớ này để đóng cửa tờ Nhân Văn (trang 836,837 sđd)
Tóm lại, có thể nói ông là một người cộng sản ly khai dứt khoát, cứng đầu, khảng khái, không thể cải tạo-irrécupérable.Dưới mắt đảng, ông là một kẻ xét lại ngoan cố, một tên phản đảng, một cái gai nhọn cần phải nhổ.
Vì vậy so với các thành viên khác của phong trào NVGP, ông đã phải lãnh bản án nặng nhất: 15 năm tù; 5 năm mất quyền công dân; 16 năm quản thúc ở Thái Bình-thời kỳ này Phùng Quán gọi là thời kỳ giun dế; sau, được phép trở về sống ở vùng ngoại ô Nghĩa Đô của Hà Nội, luôn bị công an theo dõi, cho đến lúc chết vẫn không thoát khỏi số phận hẩm hiu của một kẻ bị khai trừ.
Nghe nói lúc cuối đời ông trở về với Nam Hoa Kinh của Trang Tử, tức Trang Châu. Nếu quả vậy thì phải chăng là để tìm một lối thoát duy tâm cho một tâm hồn lỡ lạc vào mê cung hoang đường của một chủ nghĩa không tưởng-chủ nghĩa duy vật biện chứng của Karl Marx.
Ông nói với Thụy Khuê: “…Sau khi bị kết án 15 năm thì tôi cũng không ký chống án gì cả. Từ bấy giờ đến nay tôi cũng không viết một cái đơn nào để thanh minh, phân trần, xin xỏ khoan hồng hay là nọ kia. Không! Cái việc đó không!” (trang 812 sđd). Một người trí thức suốt đời trầm luân trong bể khổ mà vẫn giữ được cái khí phách ngạo nghễ, kiên cường-stoique-và tinh ròng như thế ắt phải có một triết lý sống cao sâu làm điểm tựa.
Nếu quả vậy, chuyện ông trở về với Trang Tử lúc cuối đời là hợp lý. Chúng tôi nghĩ, ông ắt phải tâm đắc với điều Trang Tử viết trong thiên Thiên Hạ của Nam Hoa Kinh: “Trang Châu thấy đời chìm đắm trong ô trọc, không hiểu được lời mình nên dùng “chi ngôn” mà gieo khắp, dùng “trùng ngôn” làm thực sự, dùng “ngụ ngôn” cho rộng hiểu. Rồi riêng một mình lại qua cùng trời đất tinh thần mà không ngạo nghễ vạn vật, không hỏi tội thị phi, lại sống chung cùng thế tục…Trên thì đạo cùng tạo vật, dưới bạn cùng “ngoại tử sinh, vô chung thủy”…Tông chỉ đó có thể thích hợp với bậc thượng trí.” (trang 17 Trang Tử Nam Hoa Kinh, Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú).
Qua những lời kể lại về sau của những Lê Đạt, Hoàng Cầm, Trần Dần, Nguyễn Mạnh Tường và sau khi đọc được những lời buộc tội của “bốn bất tử” Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi, Chế Lan Viên và Hoài Thanh, chúng ta có thể mường tượng được cái không khí ngột ngạt, gay gắt của những buổi kiểm thảo, “học tập đấu tranh chống bọn NVGP”, thực chất là những phiên tòa xử quái đản trong đó các nhà trí thức, văn nghệ sĩ đảng viên đóng vai trò công an văn hóa kiêm công tố buộc tội. Dưới áp lực của những lời đe dọa quyết liệt khiến Trần Dần phải thốt lên “Chao ơi! Con đường để đi đến chỗ “Đúng” mới nhiều máu làm sao?” (trang 162 sđđ), nếu có một số đã tỏ ra có bản lãnh, thì cũng có một số khác vì khiếp sợ đã quay lại đánh không thương tiếc bạn mình với hy vọng sẽ được xóa tội hay giảm tội. Một số ngoài phong trào cũng nhân dịp này nhảy vào đánh hôi để lấy điểm với lãnh đạo, để tiến thân.
Tóm lại, ngoài “giẻ rách hóa” nạn nhân, mục đích tối hậu của cuộc khủng bố trắng là đánh những cái Thụy Khuê coi là “những yếu tố thiêng liêng của con người, đánh tình bạn, đánh tình người, đánh tan nát.”
Chính Hồ Chí Minh chứ không phải Trường Chinh hay Tố Hữu mới là người chủ trương trận đánh sa đích này. Chứng cớ là, cũng như lần đấu tố địa chủ dưới chiêu bài cải cách ruộng đất trước kia, lần này Hồ Chí Minh cũng thân chinh đến Bắc Kinh để học tập chính sách đàn áp trí thức và văn nghệ sĩ ở Trung Cộng, rồi về nước chỉ thị cho tay chân phát động chiến dịch thanh trừng NVGP.
Sự dập tắt phong trào NVGP cũng chính là sự dập tắt tiếng nói của lương tri dân tộc. Một tội ác diệt chủng. Bởi lương tri này chính là sự kết tinh qua bao lớp phế hưng, thăng trầm của lịch sử của những giá trị tinh thần ưu việt, cách nhìn thế giới, lối nghĩ về đời, tình đồng bào, bằng hữu, đạo gia tiên, nghĩa vợ chồng, tình phụ tử. Nó là cốt cách suy tư, sự minh triết, niềm tự hào, bản lãnh, cái hồn của dân tộc. Tiêu diệt nó cũng là tiêu diệt văn hóa, bởi văn hóa với hồn này là một. Chỉ những kẻ cuồng tín bán linh hồn cho ngoại bang thì mới ăn ở thất đức như vậy.
Đề lấp lỗ hổng gây nên bởi hành động hư vô trên, ĐCSVN đã phải mượn văn hóa của một dân tộc khác để tồn tại. Đây là lý do cơ bản-nguyên nhân của nguyên nhân-của một kế hoạch bán nước dài hạn khởi từ thời Hồ Chí Minh đến bây giờ và nối tiếp trong tương lai. Một thương vụ ô nhục của những lái buôn bán luôn nhân cách mình. Bán đất, bán biển, bán đảo, bán rừng, bán thác, bán ải, bán những địa danh lịch sử, bán tài nguyên thiên nhiên, bán luôn cả tiếng mẹ đẻ cho bá quyền ngôn ngữ Bắc Kinh. Đã xuất hiện một số dấu hiệu cho thấy, theo sự sắp xếp có bài bản của tập đoàn bán nước, ngôi sao vàng sẽ rời khỏi vị trí trung tâm của nó trên lá cờ máu ở Ba Đình để xuống làm thân phận vệ tinh của lá cờ đỏ trên cổng Thiên An.
Cái hội chứng phiên quốc, nhược tiểu thuở nào tái phát trên cấp số nhân, và hiểm họa Bắc thuộc lần thứ tư đang lấp ló phía chân trời.
VẠCH TRẦN HUYỀN THOẠI HỒ CHÍ MINH LÀ NGUYỄN ÁI QUỐC
Hồ Chí Minh là một nhà sáng chế tầm cỡ của những quả lừa vĩ đại. Chẳng hạn cuộc cách mạng tháng tám khó quên ấy, ngày lên đường của một dân tộc vào những cuộc phiêu lưu đầy máu và nước mắt đến nay vẫn chưa chấm dứt; hai cuôc chiến tranh trường kỳ hắn gọi là thần thánh ấy ngốn sáu triệu sinh linh đồng bào để xây dựng một vương quốc, vương quốc của quỷ-quỷ đỏ; và cái huyền thoại Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc hắn tự viết ra dưới bút hiệu Trần Dân Tiên ấy để thêu dệt”thân thế và sự nghiệp” của mình.
Ở trên, chúng tôi đã nói sơ qua về huyền thoại này qua sự phát hiện ngày đến Paris thực sự của Nguyễn Tất Thành, tên khai sinh của Hồ Chí Minh. Nay xin bổ túc một số dữ kiện ý nghĩa thu hoạch từ cuốn biên khảo của Thụy Khuê nhằm hoàn chỉnh bức chân dung của đối tượng (xin xem chi tiết ở chương 18 sđđ).
Khảo hướng bài viết là đưa ra một số chứng cớ hiển nhiên để đánh vào tử huyệt của huyền thoại: HCM không thể là Nguyễn Ái Quốc vì không có khả năng và phẩm hạnh của nhân vật lịch sử lỗi lạc, tài đức vẹn toàn này. Thật ra, đó là bút hiệu chung của ba nhà đấu tranh tên tuổi Tiến sĩ Luật Phan Văn Trường, Cử nhân Triết Nguyễn Thế Truyền và Tiến sĩ Luật Nguyễn An Ninh. Ba người này cho Nguyễn Tất Thành đội lốt Nguyễn Ái Quốc để đánh lạc hướng Sở Mật thám Pháp.
Chúng ta hãy theo Thụy Khuê đi vào thế giới của những sự việc cụ thể.
Cuộc truy tìm và khảo sát văn bản, hồ sơ của Bộ Thuộc Địa và Sở Mật Thám Pháp, và những điều Hồ Chí Minh đích thân viết ra dưới bút hiệu Trần Dân Tiên cho thấy khả năng Pháp ngữ của Nguyễn Tất Thành như sau:
Tất Thành bắt đầu học tiếng Pháp trong thời gian làm phụ bếp trên tàu Latouche-Tréville; thầy dạy: hai người lính trẻ giải ngũ, hồi hương (trang 462 sđđ). Sau được cô sen nhà ông chủ tàu ở Sainte-Adresse dạy bổ túc (trang 463 sđđ). Phải nhờ một đồng nghiệp không có trình độ cao lắm viết giùm đơn xin học ở trường Thuộc Địa (trang 464). Đến năm 1919, vẫn chưa viết đươc tiếng Pháp nên phải nhờ Luật sư Phan Văn Trường viết hộ (trang 469). Trong hội nghị Tours của đảng Xã hội Pháp, theo lời thú nhận của Trần Dân Tiên, Tất Thành “nhức đầu vì khó hiểu” những gì mà các tham dự viên phát biểu (trang 478)
Bây giờ chúng ta hãy lật hồ sơ của Sở An Ninh Pháp để xem họ đánh giá khả năng Pháp ngữ của Tất Thành như thế nào.
Trong báo cáo ngày 20/1/1921 của điều tra viên Josselme trình thượng cấp, ông ta viết: “ Những ai biết tiếng Pháp và đọc những văn bản ký tên Nguyễn Ái Quốc đều thấy một sự thực hiển nhiên: Nguyễn Tất Thành không thể viết những bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc.” (trang 498 sđđ) Tổng thanh tra Pierre Guesde cũng có một đánh giá tương tự về trình độ Pháp ngữ của Nguyễn Tất Thành: “Khả năng nói và viết tiếng Pháp của tay An Nam này không đủ viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc” (trang 497 sđđ).
Thụy Khuê còn cung cấp cho chúng ta thêm một chứng cớ hùng hồn khác nữa: một tài liệu video của Viện Quốc gia Lưu trữ Âm thanh và Hình ảnh INA-Institut National Audiovisuel- về buổi phỏng vấn Hồ Chí Minh của một nhà báo Pháp tháng 6/1964. Trong buổi phỏng vấn này, HCM đã trả lời với một tiếng Pháp thô thiển, “ có nhiều lỗi sơ đẳng, có câu ông dịch nguyên văn tiếng Việt” như câu: “Le people Viet Nam c’est un et le pays du Viet Nam c’est un”- ông dịch từng chữ khẩu hiệu: “Nước Việt Nam là Một, dân tộc Việt Nam là Một” sang tiếng Pháp (trang 525 và 553 sđđ). Trên 70 tuổi đầu mà HCM vẫn không bỏ được cái tật nói một thứ tiếng Pháp bồi của anh Ba phụ bếp năm xưa.
Tất cả những dẫn chứng trên nhất trí với nhau ở một điểm: Với cái vốn Pháp văn nghèo nàn, khập khiễng của mình, làm sao Tất Thành có thể trước tác những bài báo, tiểu luận uyên thâm ký tên Nguyễn Ái Quốc mà HCM mạo nhận là của mình!
Ngoài ra, sự dốt tiếng Pháp của Tất Thành còn làm chúng ta phải nghi ngờ về trình độ học vấn thực sự của hắn. Nếu quả thật hắn đã tốt nghiệp bằng tiểu học Certificat d’Éùtudes Primaires, đã học hai năm ở trường trung học Quốc Học Huế, sau đi dạy tại trường Dục Thanh ở Phan Thiết trước khi “xuất dương tìm đường cứu nước” theo như tiểu sử chính thức của HCM thông báo, thì trình độ Pháp văn của Tất Thành là khá cao, do đó đâu phải nhờ hai anh lính thợ và một cô sen dạy tiếng Pháp khi mới đến Pháp (trang 466, 467 sđđ). Điều này chứng tỏ trình độ học vấn của Tất Thành trước khi xuất dương phải là dưới cấp tiểu học, và như vậy lại càng không có khả năng viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc.
Cuối cùng, trong trận đấu trí giữa người và quỷ, những trò ảo thuật của Hồ Chí Minh không qua được con mắt tinh vi của những người làm học thuật chân chính và yêu nước quyết tâm tìm cho ra được sự thật để trả nó về cho lịch sử và để minh oan cho vong hồn những đồng bào xấu số của mình đã bị HCM và tay chân của hắn bức hại. Trong số những nhà học thuật chân chính này có Thụy Khuê, người con gái mặn mà của Biển Hậu.
Nghệ thuật viết học thuật của cô là nâng cấp bản tường trình khô khan của cảnh sát điều tra lên tầm vóc của một chuyện kể sống động, hào hứng trong chừng mực tính chính xác của khoa học cho phép. Bởi đây là một công tác điều tra, truy tìm thủ phạm, cô đặt vấn đề dước góc nhìn của một thám tử kiểu Maigret làm việc một cách chuyên cần, có lớp lang, kế hoạch, sắc bén, nhạy cảm, thông minh, tỉnh táo, điềm tĩnh, chuyên nghiệp, yêu nghề và yêu chân lý.
Công việc bắt đầu với sự góp nhặt công phu và liệt kê những mảnh vụn hiện thực tung tán trong không gian và thời gian-có lúc chênh lệch nhau trên nửa thế kỷ hoặc cách xa nhau nửa vòng trái đất -sắp xếp chúng thành một trật tự mới được đặt thành vấn đề-problématique-để mổ xẻ, tìm ý nghĩa của những sự kiện, hành tung, cử chỉ, và những động thái khác của đối tượng liên hệ, kể cả những động tác giả của nó; rồi chỉ định cho chuyện kể một chủ đề, xây dựng cho nó một cái sườn, một cái trục, một cốt truyện, một kịch bản và một hướng chỉ nam-fil d’Ariane-dẫn người đọc đến điểm mở nút là sự thật của vụ việc và chân tướng của thủ phạm mà trong trường hợp này là một tên đại bịp thế kỷ.
Để có một sức thuyết phục và hấp dẫn cao, ngoài cung cách lý luận khoa học chặt chẽ phải có của nó, luận ngôn còn phải được viết với một ngôn ngữ đẹp-ngôn ngữ văn chương. Ở một người biết nâng học thuật lên hàng một nghệ thuật, hai yếu tố ấy không loại trừ nhau. Tuy nhiên, như một chuyện kể, luận ngôn không được phóng tác sự thật, mà chỉ được trình bày sự thật một cách văn vẻ khiến cho thông điệp nó muốn gửi đến người đọc được đón nhận thích thú và như vậy dễ đi sâu vào lòng họ hơn.
Với một phong cách đầy đặn, chu đáo, mặn mà, sắc sảo, am tường, lôi cuốn, ngôn ngữ Thụy Khuê có cái cốt chất lưỡng năng của cách viết lý luận hiện đại trên. Ở cô cộng sinh hai con người: một nhà văn viết học thuật tinh thông và một nhà học thuật viết văn điêu luyện. Qua tiếng lao xao của cõi chữ Thụy Khuê, chúng tôi nghe ra cái dợn mình của nghĩa và bị cuốn vào dòng cảm nghĩ của văn bản.
Ngoài mục đích mở rộng chân trời kiến thức, đọc như một phương tiện chuyển giải-dérivatif-nhiệm mầu còn là để thông qua chữ nghĩa tìm một khoái cảm mỹ học lâng lâng phiêu diệu./.
Minesota một ngày lập xuân 2012
Cung Trầm Tưởng